GDVN- Định mức tiết dạy của giáo viên tiểu học hiện nay là 23 tiết, giáo viên trung học cơ sở 19 tiết, giáo viên trung học phổ thông 17 tiết/ tuần.

Hiện nay, các cấp học phổ thông hiện nay được chia làm 3 cấp học, cụ thể: cấp Tiểu học từ lớp 1 đến lớp 5; cấp Trung học cơ sở từ lớp 6 đến lớp 9; cấp Trung học phổ thông từ lớp 10 đến lớp 12.

Đối với 3 cấp học, giáo viên dạy cấp học nào cũng có những thuận lợi và khó khăn riêng. Nếu như thuận lợi ở Tiểu học là học sinh còn nhỏ tuổi, các em dễ vâng lời thì khó khăn là giáo viên phải uốn nắn, giáo dục cho các em từng nét chữ, con số, dạy các em từ những hành động nhỏ nhất trong lớp học.

Sang cấp Trung học cơ sở, giáo viên đỡ phải vất vả hơn khi không phải cầm tay chỉ bảo từng nét chữ nhưng cấp học này, học sinh đang có sự chuyển biến về tâm sinh lí nên nhiều em rất ngang ngạnh, ương bướng.

Cấp Trung học phổ thông đã qua sàng lọc của kỳ thi tuyển sinh 10, các em đang ổn định về mọi mặt nên những nhận thức, cách ứng xử trong học tập với thầy cô giáo sẽ nhẹ nhàng hơn nhưng đây lại là lứa tuổi nhạy cảm, nhiều mộng mơ, nhất là các em đối mặt với kỳ thi tốt nghiệp, xét tuyển đại học nên giáo viên luôn phải lo lắng để cùng các em vượt qua những khó khăn trong kỳ thi cuối cấp.

Nhìn chung, khó khăn sẽ đan xen với thuận lợi nhưng có lẽ giáo viên Tiểu học có phần vất vả và cực nhọc hơn giáo viên ở 2 cấp học còn lại. Chính vì thế, phụ cấp đứng lớp của cấp học này đã và đang cao hơn 2 cấp học còn lại- đây cũng là điều phù hợp.

Cấp học nào sẽ học nhiều tiết nhất/tuần?

Năm học 2022-2023 này, ngành Giáo dục đã triển khai Chương trình giáo dục phổ thông mới năm 2018 ở các lớp 1, lớp 2, lớp 3, lớp 6, lớp 7 và lớp 10.

Nếu so sánh với chương trình 2006 thì chương trình 2018 được giảm tải về số môn học, số giờ học nhằm tạo điều kiện học sinh lựa chọn môn học, chủ đề học tập và tăng cường hoạt động thực hành, hướng tới phát triển phẩm chất, năng lực cho học trò.

Và, chương trình giáo dục phổ thông mới chia thành hai giai đoạn: giai đoạn giáo dục cơ bản (từ lớp 1 đến lớp 9) và giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp (từ lớp 10 đến lớp 12).

Đối với cấp Tiểu học, không tính môn tự chọn thì học sinh lớp 1, lớp 2 mỗi tuần các em học 25 tiết, cả năm sẽ có 875 tiết học; học sinh lớp 2 mỗi tuần có 28 tiết học, cả năm sẽ có 980 tiết. Học sinh lớp 4 và lớp 5 mỗi tuần học 30 tiết, cả năm sẽ học 1050 tiết. Mỗi tiết học ở cấp Tiểu học hiện nay có 35 phút.

Học sinh cấp Trung học cơ sở, không tính môn tự chọn, mỗi tuần học sinh lớp 6 và lớp 7 học 29 tiết, cả năm sẽ học 1015; học sinh lớp 8, lớp 9 sẽ học mỗi tuần 29,5 tiết, cả năm sẽ có 1032 tiết.

Sang cấp Trung học phổ thông, không tính các môn học tự chọn, mỗi tuần học sinh học 28,5 tiết, cả năm sẽ học 997 tiết. Các tiết học ở cấp Trung học cơ sở và Trung học phổ thông đều có 45 phút.

Như vậy, theo biên chế số tiết của chương trình giáo dục phổ thông 2018, học sinh các lớp 1, 2, 3 và học sinh Trung học phổ thông đang có số tiết ít hơn (từ 25-28,5 tiết/ tuần).

Học sinh các lớp 4,5,6,7,8,9 có số tiết học trong tuần và trong năm nhiều hơn (từ 29-30 tiết/ tuần).

Việc học sinh lớp 1, lớp 2, lớp 3 mới bước vào làm quen với những năm học đầu đời, hơn nữa, các em còn bỡ ngỡ, còn nhỏ tuổi thì việc học ít tiết hơn cũng là điều phù hợp nhưng việc để học sinh từ lớp 4 đến lớp 9 mỗi tuần có từ 29- 30 tiết học (tương đương mỗi buổi 5 tiết) cũng đang gây ra những quá tải cho học trò.

Giáo viên các cấp học phổ thông đang dạy bao nhiêu tiết/ tuần?

Đối với từng lớp học, cấp học thì học sinh phổ thông đang có giờ học khác nhau nhưng giáo viên từng cấp học sẽ có định mức tiết dạy như nhau (không tính trường đặc thù hoặc kiêm nhiệm các chức vụ).

Theo hướng dẫn của các văn bản hiện nay, định mức tiết dạy là số tiết lý thuyết hoặc thực hành của mỗi giáo viên phải giảng dạy trong một tuần, cụ thể như sau: “Định mức tiết dạy của giáo viên tiểu học là 23 tiết, giáo viên trung học cơ sở là 19 tiết, giáo viên trung học phổ thông là 17 tiết;

Định mức tiết dạy của giáo viên trường phổ thông dân tộc nội trú là 17 tiết ở cấp Trung học cơ sở, 15 tiết ở cấp Trung học phổ thông; Định mức tiết dạy của giáo viên trường phổ thông dân tộc bán trú là 21 tiết ở cấp tiểu học, 17 tiết ở cấp Trung học cơ sở;

Định mức tiết dạy của giáo viên trường, lớp dành cho người tàn tật, khuyết tật là 21 tiết đối với giáo viên ở cấp Tiểu học, 17 tiết đối với giáo viên ở cấp Trung học cơ sở.

Nếu giáo viên kiêm nhiệm thêm chức vụ chính quyền, đoàn thể thì được giảm trừ một số tiết theo quy định hiện hành.

Như vậy, nếu giáo viên dạy ở một trường bình thường, không phải là những trường đặc thù, không kiêm nhiệm chức vụ sẽ có số tiết, số thời gian cụ thể như sau: giáo viên tiểu học dạy 23 tiết/ tuần, thời gian mỗi tiết học ở cấp tiểu học hiện nay là 35 phút/ tiết. Tổng số thời gian giảng dạy trên lớp của giáo viên tiểu học sẽ bằng: 23 (tiết)* 35 (phút)= 805 phút.

Giáo viên trung học cơ sở dạy theo định mức là 19 tiết/ tuần, mỗi tiết có thời gian là 45 phút nên thời gian giảng dạy hàng tuần là: 19 (tiết)* 45 (phút)= 855 phút. Giáo viên trung học phổ thông dạy 17 tiết/ tuần, thời gian mỗi tiết cũng 45 phút nên tổng thời gian giảng dạy mỗi tuần là: 17 (tiết)* 45 (phút)= 765 phút.

Như vậy, thời gian tương ứng với số tiết dạy mỗi tuần của giáo viên ở các cấp học phổ thông đang được thực hiện như sau: giáo viên tiểu học 805 phút; giáo viên trung học cơ sở 855 phút và giáo viên trung học phổ thông là 765 phút.

Điều này cho thấy, thời gian định mức giảng dạy của giáo viên Trung học cơ sở hiện nay đang nhiều nhất, hơn cấp Trung học phổ thông 90 phút- tương đương với 2 tiết dạy.

Giáo viên Tiểu học có số tiết nhiều hơn 2 cấp còn lại nhưng tổng thời gian vẫn ít hơn giáo viên Trung học cơ sở vì ở cấp Tiểu học mỗi tiết có 35 phút.

Hiện nay, chế độ phụ cấp ưu đãi đối với nhà giáo hiện đang được quy định tại một số văn bản quy phạm pháp luật như Quyết định số 244/2005/QĐ-TTg ngày 06/10/2005 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ ưu đãi đối với nhà giáo; Thông tư liên tịch số 01/TTLT-BGD&ĐT-BNV-BTC ngày 23/01/2006 hướng dẫn thực hiện Quyết định số 244/2005/QĐ-TTg…

Theo đó, phụ cấp ưu đãi dành cho giáo viên Tiểu học là 35 %; giáo viên Trung học cơ sở và Trung học phổ thông đều đang hưởng 30%.

Chính vì thế, nếu so với 2 cấp học phổ thông khác, cấp Trung học cơ sở đang phải làm việc với thời gian nhiều hơn, thời khóa biểu giảng dạy phức tạp hơn vì cấp học này hiện chỉ có môn Toán, Ngoại ngữ và Thể dục là không có tác động nhiều bởi vẫn được dạy 1 môn học ở Chương trình giáo dục phổ thông 2018.

Các môn học còn lại: Lí, Hóa, Sinh, Sử, Địa đã chuyển sang 2 môn tích hợp; các môn Văn, Sử, Địa, Giáo dục công dân, Âm nhạc, Mĩ thuật phải dạy thêm Nội dung giáo dục địa phương nên tính phức tạp nhiều hơn. Giáo viên phải chuẩn bị nhiều giáo án, và nhiều tuần bị đẩy dồn tiết dạy dẫn đến việc nhiều giáo viên rất mệt mỏi.

Được biết, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang dự thảo Tờ trình Chính phủ đề nghị xây dựng Nghị định quy định chế độ phụ cấp ưu đãi nhà giáo. Vì thế, giáo viên chúng tôi mong muốn Bộ nhìn thấy bất cập này để điều chỉnh số tiết, phụ cấp ưu đãi của giáo viên tương xứng giữa các cấp học với nhau.

(*) Văn phong, nội dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả.

NGUYỄN ĐĂNG

Bộ Y tế vừa có công văn số 2234/BYT-MT gửi Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội về việc triển khai phòng, chống dịch COVID-19 trong các cơ sở giáo dục.

Theo công văn này, Bộ Y tế đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội khẩn trương xây dựng hướng dẫn chi tiết cho các tỉnh, thành phố về công tác phòng, chống dịch trong các cơ sở giáo dục, dựa trên các văn bản hướng dẫn đã được ban hành trước đây.

Bộ Y tế đề nghị bổ sung một số yêu cầu cụ thể trong văn bản hướng dẫn chi tiết gửi các tỉnh, thành phố. Đó là tất cả học sinh, sinh viên, giáo viên và người lao động trong các cơ sở giáo dục phải đeo khẩu trang trên đường đến trường và trở về nhà, trong thời gian ở trường.

Quá trình học tập ở trường, học sinh, sinh viên phải được bố trí chỗ ngồi đảm bảo khoảng cách giữa các học sinh, sinh viên tối thiểu 1,5m. Trên cơ sở đó, căn cứ tình hình thực tế từng phòng học, từng bàn học có thể bố trí mỗi học sinh ngồi một bàn hoặc hai học sinh ngồi một bàn hoặc ngồi so le… cho phù hợp, đảm bảo khoảng cách tối thiểu trong các hoạt động chung của học sinh, giáo viên.

Cùng với đó, Bộ Y tế đề nghị cần bổ sung trách nhiệm của UBND tỉnh, thành phố trong việc cụ thể hóa các nội dung hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội để phù hợp với điều kiện của từng địa phương. UBND tỉnh, thành phố có trách nhiệm tổ chức hướng dẫn triển khai và kiểm tra giám sát việc thực hiện công tác phòng chống dịch tại các cơ sở giáo dục.

Trước đó, tại cuộc họp trực tuyến với các Sở Giáo dục và Đào tạo, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Hữu Độ đã đề nghị các địa phương nghiêm túc thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn phòng, chống dịch khi quyết định cho học sinh đi học trở lại. Các địa phương có thể tính toán để học sinh lớp 9, lớp 12 đi học trước, các lớp khác học sau. Mỗi lớp học có thể tách đôi số lượng học sinh để đảm bảo khoảng cách an toàn giữa 2 người học. Việc dạy và học có thể kết hợp giữa trực tiếp và trực tuyến.

Việt Hà (TTXVN)

GD&TĐ – Các cơ sở đào tạo giáo viên thời gian qua đã có quá trình phát triển nhanh về số lượng và quy mô đào tạo, tuy nhiên các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo chưa phát triển tương xứng.

Số lượng các cơ sở đào tạo giáo viên khá lớn nhưng chất lượng không đồng đều, dẫn tới sinh viên ra trường khó kiếm việc làm hoặc chưa có đủ năng lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.

Nhằm khắc phục tình trạng trên, giải pháp có tính chất lâu dài đó là quy hoạch lại hệ thống các cơ sở đào tạo giáo viên phổ thông ở Việt Nam trên cơ sở đánh giá thực trạng đào tạo giáo viên, dự báo nhu cầu đào tạo trong tương lai, đồng thời nghiên cứu kinh nghiệm, tham khảo các mô hình đào tạo giáo viên thế giới.

Đây là nhận định trong nghiên cứu của nhóm giảng viên Trường ĐHSP Hà Nội do bà Nguyễn Vũ Bích Hiền (Trường ĐHSP Hà Nội) trình bày tại Hội thảo giáo dục 2017: Về giáo dục phổ thông diễn ra 22/9 tại Hà Nội.

Hệ thống đào tạo giáo viên thế giới

Do có sự khác nhau về kinh tế, văn hoá, xã hội, nên hệ thống đào tạo giáo viên giữa các quốc gia cũng có nhiều điểm khác nhau và khác với hệ thống sư phạm của nước ta.

Nghiên cứu này chỉ ra, trước hết là khác nhau về sự quản lý của Nhà nước đối với hệ thống đào tạo giáo viên. Có thể khái quát thành 2 nhóm: quyền lực tập trung vào Nhà nước và quyền tự chủ hoàn toàn của cơ sở đào tạo giáo viên.

Tham luận bà Nguyễn Vũ Bích Hiền trình bày nêu rõ: Hiện tại có rất nhiều nước duy trì quản lí tập trung hệ thống đào tạo giáo viên như Pháp, Hà Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Hồng Kông, Singapore…

Ở những nước này, Bộ Giáo dục quản lý hầu hết mọi thành tố của quá trình đào tạo cho đến cấp văn bằng/chứng chỉ cho giáo viên. Cơ chế quản lý này giúp Nhà nước kiểm soát được sự đầu tư cho đào tạo giáo viên – từ đầu vào đến đầu ra.

Tuy nhiên nó cũng xuất hiện những nguy cơ như: loại hình đào tạo giáo viên đơn nhất, không đáp ứng được nhu cầu của xã hội về chủng loại và chất lượng của giáo viên, thiếu hụt sự tự chủ của các cơ sở đào tạo, thiếu năng động, thiếu tính cạnh tranh, giảm sự sáng tạo và chậm đổi mới.

Mô hình điển hình về giao quyền tự chủ hoàn toàn cho trường ĐH trong việc đào tạo giáo viên là Hoa Kì, Phần Lan, Đức, Ôxtrâylia. Nền kinh tế- xã hội vận hành dựa trên các nguyên lí: kinh tế thị trường; luật pháp; dân chủ và đa văn hoá. Vì vậy, đào tạo giáo viên được coi là một hoạt động tạo ra và cung cấp nguồn nhân lực cho giáo dục.

Quan hệ giữa đào tạo giáo viên với nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực giáo viên là quan hệ cung – cầu, được điều tiết bởi thị trường. Các trường ĐH được toàn quyền trong việc tuyển sinh, thiết kế chương trình và tổ chức đào tạo; độc lập và cạnh tranh nhau.

Chính do tính tự chủ rất cao của các Bang và của các trường ĐH trong đào tạo, tuyển dụng và phát triển giáo viên, nên ở các Quốc gia này, việc đào tạo giáo viên được triển khai theo nhiều mô hình, nhiều mức độ khác nhau, thời gian đào tạo cũng khác nhau … tuỳ thuộc vào các đạo luật chung của Liên Bang hay các quy định của từng Bang.

Tham luận chỉ ra: Điều bất cập hiện nay của cơ chế giao quyền tự chủ hoàn toàn cho các trường ĐH trong đào tạo giáo viên ở một số nước là sự phát triển thiếu định hướng tập trung nên nguy cơ mất cân đối trong cung – cầu đội ngũ giáo viên và sự bất bình đẳng trong cung ứng các dịch vụ giáo dục cho trẻ em, đặc biệt là trẻ em vùng khó khăn.

Chẳng hạn, hiện tại ở Ôxtrâylia dư thừa sinh viên tốt nghiệp sư phạm tiểu học, nên rất khó xin việc làm toàn thời gian, nhưng lại thiếu các giáo viên dạy những môn đặc thù và giáo viên ở những vùng khó khăn. Tình hình này cũng xuất hiện phổ biến ở Đức và Hoa Kỳ.

Bên cạnh sự khác nhau về quản lý nhà nước là sự khác nhau về mô hình đào tạo giáo viên. Có hai mô hình phổ biến: nối tiếp và đồng thời; ngoài ra còn có mô hình kết hợp cả đào tạo nối tiếp và đồng thời. Nhìn chung, ở hầu hết các Quốc gia được tham khảo (Châu Âu, Hoa Kì, Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc…) đều đạo tạo theo cả hai mô hình, trong đó, đào tạo đồng thời là phổ biến.

Tương đồng và khác biệt trong đào tạo giáo viên ở Việt Nam

Ở Việt Nam, ngành sư phạm – đào tạo giáo viên có nhiều nét tương đồng với đào tạo giáo viên ở các quốc gia trên thế giới, đồng thời cũng có một số điểm khác biệt.

“Các các cơ sở đào tạo giáo viên chịu sự quản lý Nhà nước của Bộ GD&ĐT, sinh viên sư phạm được miễn học phí, tài chính nhà trường phụ thuộc ngân sách, mức độ tự chủ của các trường sư phạm không cao. Bên cạnh đó, không ít các cơ sở đào tạo sư phạm chịu sự quản lý của các địa phương nên khó quản lý tập trung về chỉ tiêu tuyển sinh. Việc đào tạo ồ ạt có thể dẫn đến dư thừa gây lãng phí, tình trạng thừa/ thiếu giáo viên cục bộ, không hợp lý về cơ cấu, chênh lệch giữa các vùng miền… cũng từ nguyên nhân này” – tham luận nêu rõ.

Cũng theo tham luận được bà Nguyễn Vũ Bích Hiền trình này, có sự tồn tại nhiều loại mô hình đào tạo giáo viên tại Việt Nam như: trường ĐH độc lập, trường/khoa sư phạm trong trường ĐH đa ngành, trường ĐH, CĐSP chuyên ngành.

Đa phần các trường đào tạo giáo viên theo mô hình đồng thời, riêng ĐH Giáo dục (thuộc ĐHQG Hà Nội) đào tạo theo mô hình nối tiếp.

“Với các loại mô hình đào tạo như trên, các cơ sở đào tạo giáo viên ở Việt Nam chưa thực sự tạo thành hệ thống có tính chỉnh thể, hữu cơ trong toàn quốc, chưa có tính liên thông, thống nhất về chương trình. Như vậy, có thể thấy điều quan trọng trong quá trình đổi mới đào tạo giáo viên của Việt Nam hiện nay là cần phải kế thừa và phát huy thế mạnh của hệ thống giáo dục trước đó, đồng thời khắc phục, sửa đổi những khiếm khuyết, tiếp nhận các xu thế của giáo dục quốc tế” – nhóm nghiên cứu nhấn mạnh trong tham luận.

Bản đồ hệ thống các trường sư phạm

Theo trình bày của bà Nguyễn Vũ Bích Hiền, Việc xây dựng quy hoạch hệ thống đào tạo giáo viên trước tiên phải dựa trên kết quả nghiên cứu dự báo nhu cầu đào tạo giáo viên trên phạm vi cả nước. Công tác dự báo cần đặc biệt quan tâm tới việc triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới sau 2018.

Điều này sẽ dẫn đến sự thay đổi khá lớn về số lượng và cơ cấu giáo viên để đảm trách chương trình, đặc biệt là các môn học mới, các chuyên đề học tập tích hợp, tự chọn và hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp.

Kết hợp với nghiên cứu các mô hình đào tạo giáo viên của thế giới, đặt trong bối cảnh điều kiện Việt Nam, tham luận chỉ ra rằng, chúng ta cần vẽ ra được bản đồ hệ thống các trường sư phạm hợp lý về phân bố vùng miền, gắn với nhu cầu thực tế và tiềm lực đào tạo của các cơ sở đào tạo. Chú ý tới tính kết nối và vận hành của hệ thống bằng quản lý Nhà nước.

Bước đầu, nghiên cứu này nêu ra một số định hướng cho công tác quy hoạch đào tạo giáo viên như sau:

Thứ nhất: Xây dựng quy hoạch các trường sư phạm theo cấu trúc chức năng, trong đó tầng đầu tiên là các trường sư phạm quốc gia đóng vai trò là đầu tầu, chất lượng cao, hỗ trợ các trường trong hệ thống cùng phát triển.

Tầng thứ hai là các trường sư phạm địa phương, khu vực có vai trò phát triển nguồn nhân lực địa phương (vùng kinh tế trọng điểm, vùng sâu, vùng xa), có sự kết nối chặt chẽ với các trường quốc gia và chịu sự quy hoạch chung của hệ thống.

Tầng thứ ba là các khoa sư phạm trong trường đại học đa ngành: đảm đương trọng trách bồi dưỡng thường xuyên cho đội ngũ giáo viên địa phương dưới sự hỗ trợ giám sát về mặt chuyên môn của các trường sư phạm.

Thứ 2: Cơ chế quản lý cho hệ thống đào tạo giáo viên cần đặc thù, tập trung, thống nhất cả nước (về chỉ tiêu tuyển sinh), đánh giá chất lượng các trường sư phạm bằng bộ tiêu chuẩn phù hợp (TEIDI); xây dựng chuẩn giảng viên sư phạm, phân tầng, kiểm định, thắt chặt trách nhiệm giải trình.

Đồng thời cần đầu tư có trọng điểm, tăng cường tự chủ cho các trường sư phạm quốc gia để phát triển học thuật, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học sư phạm, hội nhập quốc tế.

THÔNG BÁO

Theo Thông báo số 06/TB-PGD&ĐT ngày 05 tháng 01 năm 2015 về việc tổ chức vòng thi năng lực Hội thi giáo viên dạy giỏi cấp huyện năm học 2014-2015. Trong đó, thời gian thi là 7 giờ 00 ngày 11 tháng 01 năm 2015. Nay Phòng Giáo dục và Đào tạo thông báo dời thời gian tổ chức thi vòng năng lực là 13 giờ ngày 11 tháng 01 năm 2015.

Phòng Giáo dục và Đào tạo thông báo đến các đơn vị được biết./.

GD&TĐ – Thầy Nguyễn Văn Huấn – Phó Giám đốc Sở GD&ĐT Bến Tre – cho biết: Sở đã chỉ đạo các trường THPT, trung tâm GDTX tổ chức góp ý cho dự thảo quy chế tổ chức kỳ thi THPT quốc gia, đồng thời lên kế hoạch để chuẩn bị tốt nhất cho kỳ thi này.

Nhiều ưu điểm được kế thừa

Thầy Nguyễn Văn Huấn cho biết, mặc dù mới là dự thảo, nhưng nội dung Bộ GD&ĐT đưa ra có nhiều điểm mới, tạo thuận lợi cho thí sinh. Việc Bộ tổ chức lấy ý kiến cho dự thảo thể hiện sự cầu thị lắng nghe ý kiến phản biện của toàn xã hội, trong đó có cán bộ quản lý, giáo viên và nhất là học sinh, những người trong cuộc.

Trước hết, phải nói rằng dự thảo quy chế kế thừa những ưu điểm của kì thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh vào đại học, cao đẳng trong những năm qua.

Chẳng hạn, việc tổ chức thi theo cụm liên tỉnh là kế thừa những ưu điểm của mô hình tổ chức cụm thi trong kỳ thi tuyển sinh ĐH, CĐ trước đây. Việc tổ chức cụm thi tỉnh cho những địa phương khó khăn cũng tạo điều kiện thuận lợi, giúp thí sinh không phải đi xa.

Quy định về miễn thi và tính điểm tối đa môn ngoại ngữ cho học sinh đủ điều kiện để xét công nhận tốt nghiệp là hoàn toàn đúng đắn, vì thí sinh có chứng chỉ ngoại ngữ được miễn thi có cả 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, không chỉ có đọc và viết như nội dung thi hiện nay với mức độ cao hơn nhiều so với chuẩn đầu ra về ngoại ngữ bậc THPT.

Một điểm mới, tạo thuận lợi cho thí sinh nữa trong dự thảo quy chế là quy định:

Thí sinh dự thi đủ các môn quy định trong kỳ thi năm trước nhưng chưa tốt nghiệp và không bị kỷ luật huỷ kết quả thi thì được bảo lưu điểm của các môn thi đạt từ 5,0 điểm trở lên đối với bài thi chấm theo thang 10 điểm hoặc 10,0 điểm trở lên đối với bài thi chấm theo thang điểm 20 cho kỳ thi tổ chức trong năm tiếp ngay sau đó, áp dụng cho cả thí sinh giáo dục THPT, chứ không phải chỉ cho thí sinh hệ GDTX như trước đây.

Dự thảo cũng quy định trách nhiệm liên đới giữa ngành GD&ĐT với các ngành khác từ Trung ương xuống đến tỉnh, thành phố; trách nhiệm của UBND tỉnh qua việc thành lập các Ban chỉ đạo thi tốt nghiệp THPT cấp quốc gia và cấp tỉnh; quy định trách nhiệm cụ thể trong phối hợp tổ chức kì giữa Sở GD&ĐT, trường đại học và trường THPT, trung tâm GDTX, tạo thuận lợi cho việc tổ chức kì thi.

Cần thể hiện rõ hơn việc thành lập các điểm thi

Tuy nhiên, thầy Nguyễn Văn Huấn cũng đặt vấn đề: Do việc tổ chức thi theo cụm với số lượng cụm thi nhiều hơn, mở rộng ra cả nước, trong đó có những tỉnh khó khăn, nên Bộ GD&ĐT cần có tính toán kỹ để việc tổ chức, điều hành cụm thi và thí sinh được thuận lợi nhất.

Bên cạnh đó, nếu việc tổ chức thi ở cụm thi tỉnh giống như ở cụm thi liên tỉnh, cùng một quy trình và đều do trường đại học chủ trì thì không nên phân biệt cụm thi nào sử dụng kết quả để xét tốt nghiệp, cụm thi nào xét tốt nghiệp đồng thời xét tuyển sinh cao đẳng, đại học và cho phép thí sinh ở cụm thi tỉnh cũng được quyền sử dụng kết quả để xét tốt nghiệp đồng thời xét tuyển sinh vào cao đẳng, đại học.

Ngoài ra, về việc tổ chức thi cụm liên tỉnh, theo thầy Nguyễn Văn Huấn, dự thảo cũng chưa thể hiện rõ sẽ phải thành lập các điểm thi như thế nào.

Ví dụ, nếu số lượng thí sinh ở cụm thi gồm 2 tỉnh khoảng 20.000 đến 30.000 thí sinh, thì thí sinh không thể tập trung ở một số ít điểm thi trong một hoặc hai thành phố được vì không thể đảm bảo điều kiện phòng thi, nơi ăn ở cho thí sinh, nên phải chia thí sinh ở rất nhiều điểm thi ở ở các huyện của 2 tỉnh.

Việc điều hành cụm thi ở liên tỉnh với hàng trăm điểm thi như vậy sẽ hết sức khó khăn đối với trường đại học chủ trì trong khi mỗi điểm thi đều phải có lực lực lượng của trường đại học. Bộ GD&ĐT cần dự kiến trước tình huống này…

Vai trò quan trọng của Sở GD&ĐT

Dù trường đại học chủ trì việc tổ chức in sao đề thi, coi thi, chấm thi, phúc khảo, nhưng theo thầy Nguyễn Văn Huấn, vai trò của Sở GD&ĐT cũng rất quan trọng.

Thể hiện qua việc tổ chức cho thí sinh đăng ký dự thi, quản lý hồ sơ đăng ký dự thi; chuẩn bị điều kiện về cơ sở vật chất cho kỳ thi; phối hợp với trường ĐH chủ trì cụm thi để tổ chức kỳ thi; điều động cán bộ, giáo viên tham gia coi thi, chấm thi, thanh tra thi; xét, duyệt công nhận tốt nghiệp THPT.

Kỳ thi THPT quốc gia năm 2015 dự kiến lùi thời gian thi vào đầu tháng 7, Sở GD&ĐT Bến Tre sẽ chỉ đạo các trường THPT, trung tâm GDTX phối hợp với Ban đại diện cha mẹ học sinh quản lý tốt học sinh, tiếp tục ôn tập cho các em trong thời gian khoảng 1 tháng từ khi kết thúc năm học.

“Sở GD&ĐT Bến Tre đã chỉ đạo các trường THPT, trung tâm GDTX tổ chức góp ý cho dự thảo để đảm bảo việc thực hiện được thuận lợi, khả thi.

Sau khi tiếp nhận dự thảo, Sở GD&ĐT cũng đã tổ chức hội nghị trực tuyến để định hướng cho cán bộ quản lý, giáo viên các trường và trung tâm về những đổi mới trong kì thi, xét tốt nghiệp THPT, tuyển sinh vào đại học, cao đẳng sắp tới” – Thầy Huấn cho hay.

Nên bổ sung thêm bản sao Giấy khai sinh vào hồ sơ ĐKDT

Thầy Nguyễn Sỹ Thư – Giám đốc Sở GD&ĐT Kon Tum – cho biết: Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT Kon Tum đã tổ chức cho các đơn vị trực thuộc cùng với lãnh đạo Sở nghiên cứu, thảo luận và thống nhất một số ý kiến góp ý dự thảo quy chế tổ chức Kỳ thi THPT quốc gia.

Theo đó, về cơ bản, Sở GD&ĐT tỉnh Kon Tum thống nhất những nội dung trong dự thảo quy chế. Nội dung trong dự thảo rõ ràng, cụ thể và đã quán xuyến được toàn bộ những vấn đề liên quan đến việc tổ chức kỳ thi THPT quốc gia.

Tuy nhiên, Sở GD&ĐT cũng có một số nội dung cần trao đổi thêm.

Thứ nhất, về mục 3 trong Điều 13, tại trang 8, Sở đề nghị:

Hồ sơ đăng ký dự thi đối với thí sinh chưa có bằng tốt nghiệp THPT nên bổ sung thêm bản sao Giấy khai sinh để làm văn bản gốc đối chiếu các thông tin trong phiếu đăng ký dự thi, học bạ, các giấy chứng nhận ưu tiên khuyến khích…

Lý do: Vì nếu không có Giấy khai sinh làm gốc thì không có cơ sở để kiểm tra và xác định sự thống nhất và tính chính xác các thông tin trong các văn bản khác như: ngày tháng năm sinh, nơi sinh, dân tộc, tôn giáo…Điều này có thể dẫn đến sai sót trong hố sơ đăng ký dự thi và các loại giấy tờ khác.

Về mục 4 trong Điều 13, tại trang 9, Sở nhận thấy: Trong hồ sơ đăng ký dự thi đối với thí sinh tự do đã có bằng tốt nghiệp THPT bao gồm cả Bằng tốt nghiệp trung cấp (ở điểm c) là chưa hợp lý.

Về mục 5 trong Điều 13, tại trang 9, Sở đề nghị Bộ GD&ĐT nghiên cứu lại hạn cuối cùng nộp hồ sơ đăng ký dự thi trước ngày 1/4 đối với năm học này (năm học 2014 – 2015); xin điều chỉnh sang 1/5/2015.

Bởi thời gian đó các đơn vị khó có thể hoàn thành chương trình năm học và hoàn tất các thủ tục hồ sơ của học sinh.

Hiếu Nguyễn (ghi)