Hầu hết trẻ em đều thích nước vì đó là môi trường để vui chơi, khám phá nhiều điều mới lạ. Tuy nhiên, môi trường nước luôn tiềm ẩn nguy cơ đuối nước. Vì thế chúng ta cần khuyến khích trẻ em, học sinh học bơi an toàn, học những kĩ năng phòng tránh đuối nước, hình thành các kĩ năng sinh tồn cần thiết để chủ động ứng phó khi không may gặp tai nạn đuối nước cũng như đảm bảo an toàn khi tham gia hoạt động trong môi trường nước.

Xem tiếp tài liệu hoặc tải xuống TẠI ĐÂY

GD&TĐ – Cuối Hội thảo giáo dục 2017: Về chất lượng giáo dục phổ thông, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Thị Nghĩa đã có phát biểu tiếp thu, ghi nhận các ý kiến thảo luận để nghiên cứu triển khai trong thời gian tới.

Trao quyền chủ động và trách nhiệm cho địa phương, nhà trường

Thứ trưởng Nguyễn Thị Nghĩa cho biết: chất lượng giáo dục phổ thông liên quan đến nhiều yếu tố, như đội ngũ nhà giáo, cơ sở vật chất, công tác quản lý và cả bối cảnh kinh tế – xã hội.

Riêng về chương trình giáo dục phổ thông, chương trình hiện hành đã triển khai, thực hiện được 17 năm, cần thay đổi bằng chương trình mới. Chương trình mới này đã được Nghị quyết 88 của Quốc hội thông qua.

Theo Thứ trưởng, Chương trình giáo dục phổ thông mới – chương trình quốc gia tập trung đề ra những chuẩn kiến thức, kĩ năng và quy định cụ thể về nội dung chương trình và phương pháp. Chương trình đó thống nhất trong toàn quốc.

Nội dung chương trình giáo dục phổ thông mới bảo đảm định hướng thống nhất và những nội dung giáo dục cốt lõi, bắt buộc đối với học sinh toàn quốc, đồng thời trao quyền chủ động và trách nhiệm cho địa phương và nhà trường trong việc lựa chọn, bổ sung một số nội dung giáo dục và triển khai kế hoạch giáo dục phù hợp với đối tượng giáo dục và điều kiện của địa phương, của cơ sở giáo dục.

Nói sâu về chương trình nhà trường, Thứ trưởng Nguyễn Thị Nghĩa cho biết: Bộ GD&ĐT đã có công văn 791 về thí điểm xây dựng chương trình nhà trường. Trong đó đề đề ra 3 hoạt động:

Thứ nhất là rà soát nội dung chương trình, SGK hiện hành để loại bỏ những thông tin cũ, lạc hậu đồng thời bổ sung, cập nhật những thông tin mới phù hợp.

Phát hiện và xử lý sao cho trong phạm vi cấp học không còn những nội dung dạy học trùng nhau trong từng môn học và giữa các môn học; những nội dung, bài tập, câu hỏi trong SGK không phù hợp mục tiêu giáo dục của chương trình hoặc yêu cầu vận dụng kiến thức quá sâu, không phù hợp trình độ nhận thức và tâm sinh lý lứa tuổi học sinh; những nội dung trong SGK sắp xếp chưa hợp lý; những nội dung không phù hợp với địa phương của nhà trường.

Thứ 2: Cấu trúc, sắp xếp lại nội dung dạy học của từng môn học trong chương trình hiện hành theo định hướng phát triển năng lực học sinh thành những bài học mới, có thể chuyển một số nội dung dạy học thành nội dung các hoạt động giáo dục và bổ sung các hoạt động giáo dục khác vào chương trình hiện hành; xây dựng kế hoạch dạy học, phân phối chương trình mới của các môn học, hoạt động giáo dục phù hợp với đối tượng học sinh và điều kiện thực tế nhà trường.

Thứ 3: Xây dựng các chủ đề liên môn. Chủ đề liên môn bao gồm các nội dung dạy học chưa được xây dựng trong chương trình các môn học hiện hành.

“Sắp tới, chúng tôi sẽ tổ chức tổng kết, đánh giá về nội dung này. Đây được coi là bước chuyển để chuẩn bị cho việc thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới. Bên cạnh đó, Bộ GD&ĐT cũng đang tăng cường các điều kiện vật chất, đội ngũ để việc triển khai chương trình mới; trong đó điều quan trọng nhất là phát triển năng lực đội ngũ qua bồi dưỡng, tập huấn” – Thứ trưởng Nguyễn Thị Nghĩa chia sẻ.

Nghiên cứu kĩ về tự chủ trường phổ thông

Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Thị Nghĩa phát biểu tại Hội thảo giáo dục 2017 Chia sẻ về vấn đề được trao đổi nhiều tại hội thảo là tự chủ trong các cơ sở giáo dục phổ thông, Thứ trưởng Nguyễn Thị Nghĩa cho biết, tự chủ đại học đã có Nghị quyết 77 và hiện mới chỉ có 23 trường thực hiện tự chủ thí điểm. Bộ GD&ĐT đang xây dựng Nghị định tự chủ đại học và Nghị định về tự chủ các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông.

“Bộ GD&ĐT tăng cường tự chủ về chương trình; với tự chủ tài chính, nhân sự, cần nghiên cứu quy định các điều luật khác nhau để thực hiện cho phù hợp” – Thứ trưởng Nguyễn Thị Nghĩa cho hay.

Về quản lý đội ngũ, theo Thứ trưởng Nguyễn Thị Nghĩa, đây là những vấn đề ngành Giáo dục đang tập trung thực hiện; đặc biệt khi có Quyết định 72 của Thủ tướng Chính phủ và Chương trình phát triển các trường sư phạm. Nhiều giải pháp để quy hoạch đội ngũ, đảm bảo yêu cầu của chương trình giáo dục phổ thông mới đang được thực hiện.

GD&TĐ – PGS.TS Lê Quang Minh – ĐHQG Hồ Chí Minh – có tham luận đáng chú ý tại Hội thảo giáo dục 2017: Về chất lượng giáo dục phổ thông (ngày 22/9, tai Hà Nội) về chất lượng giáo dục Việt Nam dưới góc nhìn của các bên liên quan khác nhau.

Tham luận này dùng phương pháp phân tích khoảng cách giữa những thành tựu và tồn tại của giáo dục Việt Nam dưới góc nhìn của các bên liên quan và những yêu cầu của nền giáo dục thế kỷ 21; trong đó yếu tố nguồn nhân lực đáp ứng cho yêu cầu phát triển kinh tế đất nước trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu hóa. Phương pháp phân tích chuỗi kết quả cũng được dùng để đánh giá các tác động gần, xa của các biện pháp cải tiến trong giáo dục.

Xung quanh kết quả Pisa và mô hình VNEN

Theo tham luận PGS Lê Quang Minh trình bày tại Hội thảo, thành tựu mang tính hệ thống và nổi bật nhất của nền giáo dục Việt Nam là kết quả gây nhạc nhiên trên thế giới và cả Việt Nam là kết quả PISA. Mặc dù nhiều nhà giáo dục trên thế giới lo ngại về những nhóm năng lực và hành vi thái độ cần thiết cho học sinh ở độ tuổi 15 mà PISA không đo được.

Vị trí kết quả PISA của Việt Nam trên bản đồ thế giới cho thấy mức độ vượt trội của 1 quốc gia không có nhiều nguồn lực so với nhiều nước phát triển đứng thứ hạng thấp hơn.

Nhóm nghiên cứu Blavatnik School of Government, Oxford University (2016) giải thích về thành công này như sau:

Ngân sách chi cho giáo dục tăng cùng với chính sách khuyến khích phụ huynh chi tiêu cho giáo dục; xu hướng phân quyền cho nhà trường song song với gia tăng trách nhiệm giải trình với cộng đồng địa phương;

Hệ thống đánh giá chất lượng nhà trường; mức sống các gia đình tăng dẫn đến đầu tư cho giáo dục tăng; các giải pháp hỗ trợ giáo viên trong đó có khen thưởng các thành tích vượt trội. Cuối cùng là những cam kết rất cao để giảm các khoảng cách giữa học sinh vùng thuận lợi và khó khăn.

Chia sẻ quan điểm chất lượng và mục tiêu giáo dục của các bên liên quan khác nhau, tham luận PGS.TS Lê Quang Minh trình bày cho rằng, có thể dùng để giải thích những phản ứng của một số phụ huynh về dự án VNEN và dư luận trái chiều về báo cáo đánh giá tác động VNEN của Ngân hàng thế giới.

VNEN nhắm đến phát triển kỹ năng nhận thức, còn các phụ huynh phản đối VNEN lo sự con em mình điểm kém trong các kỳ thi, nhất là thi tốt nghiệp và vào đại học.

Những nguyên nhân: năng lực giáo viên, điều kiện về cơ sở vật chất, sĩ số lớp học… đã được báo chí phản ảnh nhiều, riêng ít được đề cập là vấn đề chủ chốt là sự thiếu kết nối giữa mục tiêu, phương thức và nội dung thi cử với mục tiêu giáo dục, nhất là giáo dục trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

Tránh duy ý chí

Tham luận do PGS.TS Lê Quang Minh trình bày cũng nêu rõ: Để đánh giá được chất lượng giáo dục ở cấp độ cấp quốc gia, trong đó có xét đến quan điểm chất lượng và mục tiêu của các bên liên quan, cần phải có những nghiên cứu đầy đủ, dựa vào các khung khái niệm và các công cụ phân tích thường được các tổ chức quốc tế sử dụng.

Nếu không, các kết luận thường chỉ ở mức bề mặt (không đủ chiều sâu) và chỉ phản ảnh một góc nhìn. Trong nhiều trường hợp, các kết luận này dẫn đến “nhiễu” thông tin, hoặc dẫn đến những kết luận rất xa với bản chất của vấn đề.

Các chiến lược phát triển giáo dục sẽ mang đến tác động ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, cần nhận thức rõ những kết quả mong đợi sẽ thuộc nhóm nào. Không thể đánh đồng các kết quả này và càng không thể kỳ vọng những gì chưa thể xảy đến dù ta có cố gắng đến mấy. Đó là duy ý chí.

Bên cạnh đó, tính đồng bộ của các kế hoạch giáo dục, cùng với năng lực thiết kế các kế hoạch này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả và tác động của các kế hoạch giáo dục.

“Tôi cũng đề nghị nên thành lập một nhóm để soạn lại các thuật ngữ của giáo dục” – PGS.TS Lê Quang Minh nhấn mạnh thêm.

Hiếu Nguyễn

GD&TĐ – Đổi mới đào tạo nhân lực cho ngành giáo dục là giải pháp mang tính trước mắt và lâu dài, cần được thực hiện đồng bộ, bài bản và khoa học.

Ông Nguyễn Đức Minh – Cục Nhà giáo và CBQLGD, Bộ GD&ĐT – cho biết như vậy tại Hội thảo giáo dục 2017: Về chất lượng giáo dục phổ thông chiều 22/9 tại Hà Nội.

Chỉ tiêu đào tạo gắn với nhu cầu giáo viên

Trong giải pháp này, ông Nguyễn Đức Minh nhắc đến việc quy hoạch mạng lưới các trường ĐH, CĐ, xây dựng mạng lưới các trường sư phạm một cách hợp lý, đảm bảo cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các địa phương với các trường khu vực, các trường sư phạm trọng điểm; tổ chức thực hiện tốt quy hoạch các trường sư phạm, các cơ sở bồi dưỡng, đào tạo nhà giáo, trong đó cho phép thí điểm mô hình đào tạo giáo viên trong các trường khoa học cơ bản, kỹ thuật, công nghệ.

Xây dựng và thực hiện quy hoạch đội ngũ giảng viên, CBQL giáo dục ĐH, bảo đảm đủ về số lượng, nâng cao chất lượng, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục ĐH.

Trên cơ sở dự báo về nhu cầu giáo viên, xây dựng quy hoạch đào tạo, xác định quy mô của từng trường, khoa sư phạm từ trung ương đến địa phương theo các giai đoạn từ năm 2011 đến 2020. Phân công các trường sư phạm chịu trách nhiệm đào tạo chuyên sâu, căn cứ vào khả năng về đội ngũ giảng viên và cơ sở vật chất của mỗi trường.

Ông Nguyễn Đức Minh cũng nhắc đến việc nghiên cứu mô hình trường, hoặc khoa sư phạm đào tạo giáo viên cho giai đoạn từ 2018 đến 2025 khi đội ngũ giáo viên phổ thông không thiếu, đáp ứng yêu cầu bồi dưỡng giáo viên theo chương trình, SGK mới. Hoàn thiện chính sách tuyển chọn sinh viên ngành sư phạm từ khâu tuyển sinh đến suốt quá trình đào tạo…

Ráo riết xây dựng các chuẩn mới

Cũng theo ông Nguyễn Đức Minh, giải pháp có tính chất quyết định mà toàn ngành Giáo dục đã và đang nỗ lực thực hiện là từng bước chuẩn hóa đội ngũ, nhằm bảo đảm triển khai thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới giáo dục phổ thông lần này.

Nhấn mạnh yêu cầu đặt ra đối với việc chuẩn hóa đội ngũ là nhiệm vụ cấp bách, ông Nguyễn Đức Minh cho biết, tại thời điểm này, Bộ GD&ĐT đang tiến hành ráo riết việc xây dựng các chuẩn mới, bổ sung, chỉnh sửa và hoàn thiện các chuẩn hiện có để có được bộ công cụ hữu hiệu nhất trong công tác quản lý, xây dựng và phát triển đội ngũ.

Vấn đề đặt ra đối với toàn ngành và cụ thể là các nhà trường là cần tiếp tục nâng cao nhận thức về Chuẩn để các địa phương, CBQL, giáo viên triển khai Chuẩn theo đúng mục đích ban hành qua các hoạt động.

Các nội dung của Chuẩn đang được Bộ GD&ĐT điều chỉnh theo hướng tinh giản, cụ thể hóa các tiêu chí, minh chứng để phù hợp với đặc điểm của từng trường, từng địa phương.

Đối với CBQL thì chú ý đến năng lực tự chủ, xây dựng kế hoạch chiến lược, tầm nhìn và tổ chức thực hiện các mục tiêu đề ra theo định hướng mới; còn giáo viên chú ý đến các năng lực để tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo; xây dựng mục tiêu, thiết kế bài giảng và đánh giá kết quả giáo dục theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh.

Bên cạnh đó, các cấp quản lý căn cứ Chuẩn để xây dựng quy hoạch, kế hoạch, chương trình, tài liệu, phương pháp và hình thức bồi dưỡng nhà giáo phù hợp theo những yêu cầu và nhiệm vụ của đổi mới giáo dục phổ thông.

Các giải pháp mang tính tổng thể, hệ thống

Cùng với giải pháp chuẩn hóa đội ngũ, đổi mới đào tạo nhân lực ngành Giáo dục, Bộ GD&ĐT cũng đã và đang tiếp tục ráo riết triển khai thực hiện những giải pháp mang tính tổng thể và hệ thống nhằm đáp ứng yêu cầu mới, khắc phục những tồn tại bất cập của đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục, bảo đảm triển khai thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới giáo dục phổ thông lần này.

Đó là tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục cho đội ngũ nhà giáo nhận thức sâu sắc về chủ trương đổi mới giáo dục phổ thông và vị trí của nhà giáo trong quá trình thực hiện.

Xác định yêu cầu bồi dưỡng nhà giáo là nhiệm vụ chiến lược của ngành trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ, bù đắp những thiếu hụt khi chuyển sang thực hiện chương trình, sách giáo khoa mới.

Thực hiện các giải pháp về chính sách và cơ chế đối với đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục trong quá trình thực hiện đổi mới giáo dục phổ thông. Tạo điều kiện để nhà giáo và CBQL giáo dục được tăng cường trao đổi, giao lưu, hợp tác quốc tế; có chế độ mời giảng viên nước ngoài tới làm việc, giảng dạy trong các cơ sở giáo dục đào tạo trong nước, trước hết là các cơ sở giáo dục đại học…

Cuối cùng là giải pháp về tài chính bảo đảm cho đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục thực thi tốt các nhiệm vụ đổi mới giáo dục phổ thông.

“Để bảo đảm cho ngành giáo dục triển khai thực hiện tốt các yêu cầu trên, Bộ GD&ĐT tiếp tục tham mưu với Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ về các vấn đề liên quan đến nhà giáo và CBQL giáo dục, trong đó xác định rõ những giải pháp cụ thể hóa chủ trương coi nhà giáo và CBQL giáo dục là khâu “then chốt” đảm bảo sự thành công cho “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam” và đổi mới Chương trình giáo dục phổ thông.

Đồng thời, cũng cần có sự tham gia, chung tay, góp sức và đồng thuận của toàn xã hội để bảo đảm công cuộc đổi mới giáo dục phổ thông lần này thắng lợi theo đúng mục tiêu đề ra” – ông Nguyễn Đức Minh cho hay.

Nhân dịp xuân mới, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã trao đổi về kế hoạch hành động của Ngành năm 2015.

Theo Bộ trưởng, tiền đề để năm 2015 ngành GD có những bước đi quyết liệt hơn là: Nghị quyết về đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông đã được Quốc hội thông qua và chương trình, kế hoạch hành động cũng như Ban Chỉ đạo đổi mới cũng đã được thành lập; quy định mới về đánh giá học sinh tiểu học, phương án tổ chức kỳ thi trung học phổ thông quốc gia năm 2015 cũng đã được công bố…

Việt Nam tiếp tục đạt kết quả cao trong các kỳ thi Olympic khu vực, quốc tế với 28 học sinh tham dự thì cả 28 em đều đạt huy chương; ĐHQG HN và TPHCM, ĐH Bách khoa Hà Nội lọt vào bảng xếp hạng các trường đại học lớn của châu Á.

Hai ngành khoa học máy tính (CS) và kỹ thuật máy tính (CE) của Trường Đại học Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh đã được Hội đồng kiểm định các chương trình đào tạo khối kỹ thuật và công nghệ của Mỹ (ABET) công nhận chất lượng đào tạo kể từ năm 2014.

Năm 2015, ngành giáo dục đào tạo sẽ tập trung vào các vấn đề quan trọng nào và biện pháp cụ thể cho từng vấn đề của ngành là gì?

Năm 2015, Bộ GD&ĐT sẽ tiếp tục triển khai các công việc đã đưa vào kế hoạch năm học 2014-2015 và sẽ tập trung thực hiện một số công việc trọng tâm như sau:

Trước hết là tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật để đưa Nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo vào cuộc sống, đặc biệt là các văn bản thực hiện Nghị quyết số 88/2014/QH13 của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông.

Thứ hai là, chỉ đạo tổ chức tốt kỳ thi THPT quốc gia, bảo đảm độ tin cậy, vừa làm căn cứ để xét công nhận tốt nghiệp, vừa cung cấp dữ liệu cho việc tuyển sinh vào ĐH, CĐ.

Thứ ba là, tiếp tục triển khai đổi mới mạnh mẽ giáo dục đại học; đặc biệt là các trường ĐH sư phạm để đào tạo mới và bồi dưỡng, đào tạo lại đội ngũ giáo viên đáp ứng được yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.

Thứ tư, tiếp tục làm sâu sắc hơn, vững chắc hơn những đổi mới bước đầu đang được triển khai ở bậc tiểu học, trung học, tạo tiền đề để tiếp tục đổi mới giáo dục phổ thông theo Nghị quyết 29.

Thứ năm, tổ chức triển khai nghiên cứu, xây dựng chương trình giáo dục phổ thông mới.

Ông có thể phác họa những thay đổi lớn nhất của ngành giáo dục khi thực hiện Nghị quyết về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục Việt Nam và thực hiện Luật Giáo dục đại học?

Thay đổi lớn nhất là tạo ra thế hệ học sinh Việt Nam mới được phát triển toàn diện về phẩm chất và năng lực. Sinh viên tốt nghiệp ra trường không chỉ biết đi “xin” việc mà phải biết chủ động tạo ra việc làm cho bản thân và những người khác.

Nhân dịp xuân về, Bộ trưởng muốn nhắn gửi điều gì đến đội ngũ các thầy cô giáo?

Bộ GD&ĐT trân trọng ghi nhận công sức và lòng tận tụy của các thầy giáo, cô giáo, những nhà quản lý giáo dục đã góp sức cho sự nghiệp phát triển giáo dục của đất nước. Thay mặt ngành giáo dục, tôi bày tỏ lòng biết ơn đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân đã quan tâm chỉ đạo, giúp đỡ ngành giáo dục vượt qua nhiều khó khăn và thu được những kết quả bước đầu nói trên.

Tôi tin tưởng sâu sắc rằng, trong năm 2015 với nhiều ngày lễ kỷ niệm lớn của đất nước, các thầy cô giáo chúng ta tiếp tục truyền cảm hứng và động viên học trò cố gắng học tập để trở thành những người giỏi nhất theo khả năng của mình.

Tôi mong sao với cả thầy cô giáo và các em học sinh, mỗi ngày đến trường là mỗi ngày vui. Vui vì biết thêm những điều hay. Vui vì làm được thêm nhiều việc tốt.

Nhân dịp năm mới, kính chúc các thầy giáo, cô giáo mạnh khỏe và hạnh phúc. Chúc các cháu học sinh, sinh viên học tập và rèn luyện với niềm vui sáng tạo.

Theo tienphong

Trong thư gửi ngành giáo dục nhân dịp năm học mới, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nhắn nhủ, ngoài nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, các nhà trường cần quan tâm hơn nữa đến việc giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên.

Sau đây là toàn văn bức thư của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang:

Các thầy giáo, cô giáo, cán bộ, công chức, viên chức ngành giáo dục, các bậc phụ huynh và các em học sinh, sinh viên thân mến!

Nhân dịp khai giảng năm học mới 2014-2015, tôi thân ái gửi tới các thế hệ nhà giáo, cán bộ, công chức, viên chức ngành giáo dục và các em học sinh, sinh viên trong cả nước lời chúc mừng tốt đẹp nhất.

Năm học 2013-2014 là năm học đầu tiên triển khai thực hiện Nghị quyết số 2-NQ/TW ngày 04/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 (Khóa XI) về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Ngành Giáo dục đã có nhiều cố gắng, triển khai đồng bộ nhiều giải pháp để tiếp tục đổi mới công tác quản lý, nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp; chính sách cho học sinh, sinh viên nghèo, dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn và các đối tượng chính sách được bổ sung kịp thời; việc đổi mới thi tốt nghiệp trung học phổ thông và tuyển sinh đại học, cao đẳng trong năm 2014 nhận được sự đồng thuận của xã hội; các đội tuyển của Việt Nam tham gia thi Olympic khu vực và quốc tế tiếp tục đạt thành tích xuất sắc; giáo dục đại học từng bước đổi mới đồng bộ theo hướng tăng cường tự chủ, tự chịu trách nhiệm.

Tôi nhiệt liệt biểu dương sự nỗ lực cố gắng và những kết quả đã đạt được của ngành Giáo dục trong năm học vừa qua.

Năm học 2014-2015, ngành giáo dục cần tiếp tục phát huy và nhân rộng những mô hình mới, cách làm hay của các điển hình tiên tiến; quan tâm hơn nữa đến công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên; giữ vững và không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo; tích cực triển khai có hiệu quả Chương trình hành động của Chính phủ về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.

Nhân đây, tôi đề nghị các cấp ủy Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể, gia đình và xã hội tiếp tục quan tâm, chăm lo nhiều hơn nữa cho sự nghiệp giáo dục; tạo điều kiện tốt hơn, đầy đủ hơn cho việc học tập, rèn luyện và phấn đấu của con em chúng ta.

Các thầy giáo, cô giáo thân mến!

Tôi thực sự chia sẻ với những khó khăn, vất vả song cũng rất vinh quang của nghề giáo dục, đặc biệt là các thầy giáo, cô giáo ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo đã phải hy sinh rất nhiều để nuôi dưỡng, dạy dỗ học trò của mình hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn. Tôi mong các thầy giáo, cô giáo tiếp tục cố gắng hơn nữa vì sự nghiệp “Trồng người”.

Các em học sinh, sinh viên yêu quý!

Các em là những chủ nhân tương lai của đất nước. Tôi mong các em chăm chỉ học tập, rèn luyện và tích cực tham gia các hoạt động xã hội, sử dụng thời gian quý giá trong quãng đời học sinh, sinh viên để chuẩn bị tốt hành trang lập thân, lập nghiệp, sau này phụng sự quê hương, đất nước.

Chúc các thầy giáo, cô giáo, cán bộ, công chức, viên chức ngành giáo dục và toàn thể các học sinh, sinh viên đạt được nhiều thành tích xuất sắc trong năm học mới. Chúc sự nghiệp giáo dục ngày càng phát triển, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa.

Trương Tấn Sang