Sáng 20/11/2017, trường THCS Tạ Thị Kiều tưng bừng tổ chức buổi họp mặt kỷ niệm 35 năm ngày nhà giáo Việt Nam, 20/11/1982 – 20/11/2017. Đến dự buổi họp mặt có rất nhiều khách mời đến từ các cơ quan ban ngành Huyện cũng như địa phương, cùng với toàn thể hội đồng giáo viên và các em học sinh của nhà trường. Tất cả mọi người với những khuôn mặt tươi tắn, hân hoan và rạng ngời để cùng nhau mừng ngày kỷ niệm này. Sau đây là một số hình ảnh của buổi họp mặt này.



























GD&TĐ – Các cơ sở đào tạo giáo viên thời gian qua đã có quá trình phát triển nhanh về số lượng và quy mô đào tạo, tuy nhiên các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo chưa phát triển tương xứng.

Số lượng các cơ sở đào tạo giáo viên khá lớn nhưng chất lượng không đồng đều, dẫn tới sinh viên ra trường khó kiếm việc làm hoặc chưa có đủ năng lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.

Nhằm khắc phục tình trạng trên, giải pháp có tính chất lâu dài đó là quy hoạch lại hệ thống các cơ sở đào tạo giáo viên phổ thông ở Việt Nam trên cơ sở đánh giá thực trạng đào tạo giáo viên, dự báo nhu cầu đào tạo trong tương lai, đồng thời nghiên cứu kinh nghiệm, tham khảo các mô hình đào tạo giáo viên thế giới.

Đây là nhận định trong nghiên cứu của nhóm giảng viên Trường ĐHSP Hà Nội do bà Nguyễn Vũ Bích Hiền (Trường ĐHSP Hà Nội) trình bày tại Hội thảo giáo dục 2017: Về giáo dục phổ thông diễn ra 22/9 tại Hà Nội.

Hệ thống đào tạo giáo viên thế giới

Do có sự khác nhau về kinh tế, văn hoá, xã hội, nên hệ thống đào tạo giáo viên giữa các quốc gia cũng có nhiều điểm khác nhau và khác với hệ thống sư phạm của nước ta.

Nghiên cứu này chỉ ra, trước hết là khác nhau về sự quản lý của Nhà nước đối với hệ thống đào tạo giáo viên. Có thể khái quát thành 2 nhóm: quyền lực tập trung vào Nhà nước và quyền tự chủ hoàn toàn của cơ sở đào tạo giáo viên.

Tham luận bà Nguyễn Vũ Bích Hiền trình bày nêu rõ: Hiện tại có rất nhiều nước duy trì quản lí tập trung hệ thống đào tạo giáo viên như Pháp, Hà Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Hồng Kông, Singapore…

Ở những nước này, Bộ Giáo dục quản lý hầu hết mọi thành tố của quá trình đào tạo cho đến cấp văn bằng/chứng chỉ cho giáo viên. Cơ chế quản lý này giúp Nhà nước kiểm soát được sự đầu tư cho đào tạo giáo viên – từ đầu vào đến đầu ra.

Tuy nhiên nó cũng xuất hiện những nguy cơ như: loại hình đào tạo giáo viên đơn nhất, không đáp ứng được nhu cầu của xã hội về chủng loại và chất lượng của giáo viên, thiếu hụt sự tự chủ của các cơ sở đào tạo, thiếu năng động, thiếu tính cạnh tranh, giảm sự sáng tạo và chậm đổi mới.

Mô hình điển hình về giao quyền tự chủ hoàn toàn cho trường ĐH trong việc đào tạo giáo viên là Hoa Kì, Phần Lan, Đức, Ôxtrâylia. Nền kinh tế- xã hội vận hành dựa trên các nguyên lí: kinh tế thị trường; luật pháp; dân chủ và đa văn hoá. Vì vậy, đào tạo giáo viên được coi là một hoạt động tạo ra và cung cấp nguồn nhân lực cho giáo dục.

Quan hệ giữa đào tạo giáo viên với nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực giáo viên là quan hệ cung – cầu, được điều tiết bởi thị trường. Các trường ĐH được toàn quyền trong việc tuyển sinh, thiết kế chương trình và tổ chức đào tạo; độc lập và cạnh tranh nhau.

Chính do tính tự chủ rất cao của các Bang và của các trường ĐH trong đào tạo, tuyển dụng và phát triển giáo viên, nên ở các Quốc gia này, việc đào tạo giáo viên được triển khai theo nhiều mô hình, nhiều mức độ khác nhau, thời gian đào tạo cũng khác nhau … tuỳ thuộc vào các đạo luật chung của Liên Bang hay các quy định của từng Bang.

Tham luận chỉ ra: Điều bất cập hiện nay của cơ chế giao quyền tự chủ hoàn toàn cho các trường ĐH trong đào tạo giáo viên ở một số nước là sự phát triển thiếu định hướng tập trung nên nguy cơ mất cân đối trong cung – cầu đội ngũ giáo viên và sự bất bình đẳng trong cung ứng các dịch vụ giáo dục cho trẻ em, đặc biệt là trẻ em vùng khó khăn.

Chẳng hạn, hiện tại ở Ôxtrâylia dư thừa sinh viên tốt nghiệp sư phạm tiểu học, nên rất khó xin việc làm toàn thời gian, nhưng lại thiếu các giáo viên dạy những môn đặc thù và giáo viên ở những vùng khó khăn. Tình hình này cũng xuất hiện phổ biến ở Đức và Hoa Kỳ.

Bên cạnh sự khác nhau về quản lý nhà nước là sự khác nhau về mô hình đào tạo giáo viên. Có hai mô hình phổ biến: nối tiếp và đồng thời; ngoài ra còn có mô hình kết hợp cả đào tạo nối tiếp và đồng thời. Nhìn chung, ở hầu hết các Quốc gia được tham khảo (Châu Âu, Hoa Kì, Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc…) đều đạo tạo theo cả hai mô hình, trong đó, đào tạo đồng thời là phổ biến.

Tương đồng và khác biệt trong đào tạo giáo viên ở Việt Nam

Ở Việt Nam, ngành sư phạm – đào tạo giáo viên có nhiều nét tương đồng với đào tạo giáo viên ở các quốc gia trên thế giới, đồng thời cũng có một số điểm khác biệt.

“Các các cơ sở đào tạo giáo viên chịu sự quản lý Nhà nước của Bộ GD&ĐT, sinh viên sư phạm được miễn học phí, tài chính nhà trường phụ thuộc ngân sách, mức độ tự chủ của các trường sư phạm không cao. Bên cạnh đó, không ít các cơ sở đào tạo sư phạm chịu sự quản lý của các địa phương nên khó quản lý tập trung về chỉ tiêu tuyển sinh. Việc đào tạo ồ ạt có thể dẫn đến dư thừa gây lãng phí, tình trạng thừa/ thiếu giáo viên cục bộ, không hợp lý về cơ cấu, chênh lệch giữa các vùng miền… cũng từ nguyên nhân này” – tham luận nêu rõ.

Cũng theo tham luận được bà Nguyễn Vũ Bích Hiền trình này, có sự tồn tại nhiều loại mô hình đào tạo giáo viên tại Việt Nam như: trường ĐH độc lập, trường/khoa sư phạm trong trường ĐH đa ngành, trường ĐH, CĐSP chuyên ngành.

Đa phần các trường đào tạo giáo viên theo mô hình đồng thời, riêng ĐH Giáo dục (thuộc ĐHQG Hà Nội) đào tạo theo mô hình nối tiếp.

“Với các loại mô hình đào tạo như trên, các cơ sở đào tạo giáo viên ở Việt Nam chưa thực sự tạo thành hệ thống có tính chỉnh thể, hữu cơ trong toàn quốc, chưa có tính liên thông, thống nhất về chương trình. Như vậy, có thể thấy điều quan trọng trong quá trình đổi mới đào tạo giáo viên của Việt Nam hiện nay là cần phải kế thừa và phát huy thế mạnh của hệ thống giáo dục trước đó, đồng thời khắc phục, sửa đổi những khiếm khuyết, tiếp nhận các xu thế của giáo dục quốc tế” – nhóm nghiên cứu nhấn mạnh trong tham luận.

Bản đồ hệ thống các trường sư phạm

Theo trình bày của bà Nguyễn Vũ Bích Hiền, Việc xây dựng quy hoạch hệ thống đào tạo giáo viên trước tiên phải dựa trên kết quả nghiên cứu dự báo nhu cầu đào tạo giáo viên trên phạm vi cả nước. Công tác dự báo cần đặc biệt quan tâm tới việc triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới sau 2018.

Điều này sẽ dẫn đến sự thay đổi khá lớn về số lượng và cơ cấu giáo viên để đảm trách chương trình, đặc biệt là các môn học mới, các chuyên đề học tập tích hợp, tự chọn và hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp.

Kết hợp với nghiên cứu các mô hình đào tạo giáo viên của thế giới, đặt trong bối cảnh điều kiện Việt Nam, tham luận chỉ ra rằng, chúng ta cần vẽ ra được bản đồ hệ thống các trường sư phạm hợp lý về phân bố vùng miền, gắn với nhu cầu thực tế và tiềm lực đào tạo của các cơ sở đào tạo. Chú ý tới tính kết nối và vận hành của hệ thống bằng quản lý Nhà nước.

Bước đầu, nghiên cứu này nêu ra một số định hướng cho công tác quy hoạch đào tạo giáo viên như sau:

Thứ nhất: Xây dựng quy hoạch các trường sư phạm theo cấu trúc chức năng, trong đó tầng đầu tiên là các trường sư phạm quốc gia đóng vai trò là đầu tầu, chất lượng cao, hỗ trợ các trường trong hệ thống cùng phát triển.

Tầng thứ hai là các trường sư phạm địa phương, khu vực có vai trò phát triển nguồn nhân lực địa phương (vùng kinh tế trọng điểm, vùng sâu, vùng xa), có sự kết nối chặt chẽ với các trường quốc gia và chịu sự quy hoạch chung của hệ thống.

Tầng thứ ba là các khoa sư phạm trong trường đại học đa ngành: đảm đương trọng trách bồi dưỡng thường xuyên cho đội ngũ giáo viên địa phương dưới sự hỗ trợ giám sát về mặt chuyên môn của các trường sư phạm.

Thứ 2: Cơ chế quản lý cho hệ thống đào tạo giáo viên cần đặc thù, tập trung, thống nhất cả nước (về chỉ tiêu tuyển sinh), đánh giá chất lượng các trường sư phạm bằng bộ tiêu chuẩn phù hợp (TEIDI); xây dựng chuẩn giảng viên sư phạm, phân tầng, kiểm định, thắt chặt trách nhiệm giải trình.

Đồng thời cần đầu tư có trọng điểm, tăng cường tự chủ cho các trường sư phạm quốc gia để phát triển học thuật, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học sư phạm, hội nhập quốc tế.

GD&TĐ – PGS.TS Lê Quang Minh – ĐHQG Hồ Chí Minh – có tham luận đáng chú ý tại Hội thảo giáo dục 2017: Về chất lượng giáo dục phổ thông (ngày 22/9, tai Hà Nội) về chất lượng giáo dục Việt Nam dưới góc nhìn của các bên liên quan khác nhau.

Tham luận này dùng phương pháp phân tích khoảng cách giữa những thành tựu và tồn tại của giáo dục Việt Nam dưới góc nhìn của các bên liên quan và những yêu cầu của nền giáo dục thế kỷ 21; trong đó yếu tố nguồn nhân lực đáp ứng cho yêu cầu phát triển kinh tế đất nước trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu hóa. Phương pháp phân tích chuỗi kết quả cũng được dùng để đánh giá các tác động gần, xa của các biện pháp cải tiến trong giáo dục.

Xung quanh kết quả Pisa và mô hình VNEN

Theo tham luận PGS Lê Quang Minh trình bày tại Hội thảo, thành tựu mang tính hệ thống và nổi bật nhất của nền giáo dục Việt Nam là kết quả gây nhạc nhiên trên thế giới và cả Việt Nam là kết quả PISA. Mặc dù nhiều nhà giáo dục trên thế giới lo ngại về những nhóm năng lực và hành vi thái độ cần thiết cho học sinh ở độ tuổi 15 mà PISA không đo được.

Vị trí kết quả PISA của Việt Nam trên bản đồ thế giới cho thấy mức độ vượt trội của 1 quốc gia không có nhiều nguồn lực so với nhiều nước phát triển đứng thứ hạng thấp hơn.

Nhóm nghiên cứu Blavatnik School of Government, Oxford University (2016) giải thích về thành công này như sau:

Ngân sách chi cho giáo dục tăng cùng với chính sách khuyến khích phụ huynh chi tiêu cho giáo dục; xu hướng phân quyền cho nhà trường song song với gia tăng trách nhiệm giải trình với cộng đồng địa phương;

Hệ thống đánh giá chất lượng nhà trường; mức sống các gia đình tăng dẫn đến đầu tư cho giáo dục tăng; các giải pháp hỗ trợ giáo viên trong đó có khen thưởng các thành tích vượt trội. Cuối cùng là những cam kết rất cao để giảm các khoảng cách giữa học sinh vùng thuận lợi và khó khăn.

Chia sẻ quan điểm chất lượng và mục tiêu giáo dục của các bên liên quan khác nhau, tham luận PGS.TS Lê Quang Minh trình bày cho rằng, có thể dùng để giải thích những phản ứng của một số phụ huynh về dự án VNEN và dư luận trái chiều về báo cáo đánh giá tác động VNEN của Ngân hàng thế giới.

VNEN nhắm đến phát triển kỹ năng nhận thức, còn các phụ huynh phản đối VNEN lo sự con em mình điểm kém trong các kỳ thi, nhất là thi tốt nghiệp và vào đại học.

Những nguyên nhân: năng lực giáo viên, điều kiện về cơ sở vật chất, sĩ số lớp học… đã được báo chí phản ảnh nhiều, riêng ít được đề cập là vấn đề chủ chốt là sự thiếu kết nối giữa mục tiêu, phương thức và nội dung thi cử với mục tiêu giáo dục, nhất là giáo dục trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

Tránh duy ý chí

Tham luận do PGS.TS Lê Quang Minh trình bày cũng nêu rõ: Để đánh giá được chất lượng giáo dục ở cấp độ cấp quốc gia, trong đó có xét đến quan điểm chất lượng và mục tiêu của các bên liên quan, cần phải có những nghiên cứu đầy đủ, dựa vào các khung khái niệm và các công cụ phân tích thường được các tổ chức quốc tế sử dụng.

Nếu không, các kết luận thường chỉ ở mức bề mặt (không đủ chiều sâu) và chỉ phản ảnh một góc nhìn. Trong nhiều trường hợp, các kết luận này dẫn đến “nhiễu” thông tin, hoặc dẫn đến những kết luận rất xa với bản chất của vấn đề.

Các chiến lược phát triển giáo dục sẽ mang đến tác động ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, cần nhận thức rõ những kết quả mong đợi sẽ thuộc nhóm nào. Không thể đánh đồng các kết quả này và càng không thể kỳ vọng những gì chưa thể xảy đến dù ta có cố gắng đến mấy. Đó là duy ý chí.

Bên cạnh đó, tính đồng bộ của các kế hoạch giáo dục, cùng với năng lực thiết kế các kế hoạch này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả và tác động của các kế hoạch giáo dục.

“Tôi cũng đề nghị nên thành lập một nhóm để soạn lại các thuật ngữ của giáo dục” – PGS.TS Lê Quang Minh nhấn mạnh thêm.

Hiếu Nguyễn